Saturday, December 12, 2009

GS Nguyễn Văn Hoàn Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tườn

Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường

GS Nguyễn Văn Hoàn, Luật sư

- Thứ sáu, 13/11/2009

Sau khi đi học ở Ý về (1978-1979) cùng với Văn học Việt Nam, tôi còn phải làm về Văn học Ý và thường gặp khó khăn trước các câu trích dẫn La tinh, nhất là khi dịch Thần khúc của Dante Alighieri (1265-1321). Tôi đã đi hỏi các đồng nghiệp cao tuổi nhưng vẫn không khắc phục được hoàn toàn trở ngại đó, cuối cùng tôi nghĩ đến việc cầu cứu Thầy Nguyễn Mạnh Tường. Thầy là Tiến sĩ Luật, phải nghiên cứu sâu Luật La Mã, do đó thấy phải rất giỏi tiếng La-tinh. Nhưng đến làm phiền một giáo sư - học giả như Thầy mà chỉ là để nhờ dịch mấy câu La-tinh thì e không thích hợp, thế là tôi đe đạt thêm nguyện vọng thứ hai: muốn được nghe kinh nghiệm của Thầy trong việc thâm nhập vào các nền Văn học châu Âu. Thầy vui vẻ nhận lời.

Chiều ngày 18/9/1991, tôi đến nhà Thầy ở số 34 phố Tăng Bạt Hổ, Hà Nội. Đi qua một cái sân nhỏ có nhiều bong cây, tôi đi vào phòng khách của một biệt thự cổ, toàn bàn ghế cổ sau bao “tang thương dâu bể”. Thầy đã quá già, so với hồi năm 1953, tôi học với Thầy ở Ban Sư phạm cao cấp của Trường dự bị Đại học Liên khu IV ở Thanh Hóa. Và đúng như tôi dự đoán, mấy câu La-tinh trích từ Kinh Thánh, từ các Thánh Ca đã làm tôi lúng túng, Thầy chỉ giảng khoảng 15 phút là xong. Hầu như cả buổi chiều hôm ấy Thầy nói như trút hết cả nỗi niềm, tâm sự. Sau đây tôi xin được lược ghi lại lời Thầy.

“Tôi sinh năm 1909, năm 1927 sang Pháp. Bạn bè khuyên tôi đừng lên Paris, lạnh quá, ở Montpellier, một năm có 300 ngày nắng, hợp với ta hơn. Sau hai năm tôi đỗ Cử nhân Văn khoa, với 4 chứng chỉ: Văn học Pháp, Văn học Hy Lạp, Văn học La Mã, Ngữ Pháp.

Năm 1930, tôi đỗ Cử nhân luật Sau đó xin thi Thạc sĩ. Đây là một kỳ thi tuyển, nếu đậu sẽ được bổ làm giáo sư trung học, nhưng họ không cho vì tôi không có quốc tịch Pháp. Các giáo sư bảo, vậy thì học lên để thi Tiến sĩ. Thời đó, Tiến sĩ Pháp có hai loại: Tiến sĩ đại học và Tiến sĩ quốc gia. Tiến sĩ Đại học chỉ là một danh nghĩa, chứ chưa đem lại cho mình quyền lợi gì cụ thể. Tiến sĩ quốc gia thì khó lắm, trước hết phải có bằng chuyên sâu cao đẳng, như phó Tiến sĩ Liên Xô, sau đó phải trình hai luận án, một chính, một phụ, lại phải thi vấn đáp hai ngoại ngữ Anh và Đức.

Năm 1932, tôi thi đậu Tiến sĩ Luật, một tháng sau thi đậu Tiến sĩ Văn, đều ở Đại học Montpellier, 22 tuổi rưỡi tôi đậu hai bằng Tiến sĩ là như vậy.

Về nước có hai viên mật thám, trong đó có Louis Marty, gặp và gợi ý tôi vào làm việc với Bảo Đại, cấp bậc Thượng thư. Tôi từ chối, sau đó họ gây khó khăn, ở nhà ba tháng, tôi trở lại Pháp. Năm năm trời đi du lịch và nghiên cứu các nước châu Âu: Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, Hy Lạp, Thồ Nhĩ Kỳ, Ai Cập. . . Trong thời gian này tôi viết bốn cuốn sách bằng tiếng Pháp:

1. Nền tảng Pháp.

2. Kinh nghiệm Địa Trung Hải.

3. Kinh nghiệm và nước mắt tuổi trẻ.

4. Du lịch và cảm xúc (Kịch).

Dụng ý của tôi là cung cấp cho công trường Việt Nam và châu Á những nguyên vật liệu xây dựng của văn minh châu Âu.

Sau 5 năm đi du lịch, năm 1936 tôi về nước được vào dạy ở Trường Bảo Hộ (Trường Bưởi). Nhà ở số 1 Mai Xuân Thưởng, trông ra Hồ Tây, chỉ cách trường 200 mét. Đây là quãng một thời gian hạnh phúc của đời tôi. Đồng nghiệp thì có Hoàng Xuân Hãn dạy Toán, Nguyễn Văn Huyên dạy Sử, Kontum dạy Vật lý. Các học trò xuất sắc, tôi còn nhớ có Lê Kim Chung sau làm ngoại giao, Lê Khắc làm ngoại thương, Nguyễn Sĩ Quốc, Tiến sĩ về Y khoa.

Năm 1940, Pháp thua trận, Nhật đưa quân vào Đông Dương, lập ra một Hội đồng, do Phạm Lê Bổng đứng đầu, vận động nông dân bán lúa, gạo cho Nhật. Họ muốn tôi tham gia nhưng tôi từ chối. Họ lại gây khó khăn, tôi nộp đơn xin từ chức, ra mở văn phòng luật sư ở phố Trần Hưng Đạo, đây là nghề tôi đã tập sự bên Pháp.

Tháng 9 năm 1945, Cách mạng thành công. Chỉ hơn một tháng sau khi đọc bản tuyên bố thành lập nước Việt Nam độc lập ở quảng trường Ba Đình, cụ Hồ ký sắc lệnh lập thêm Trường Đại học Văn Khoa, bổ sung vào hệ thống trường đã có, do Pháp lập, ông Đặng Thai Mai làm Giám đốc, tôi được cử dạy Khoa Văn chương Tây Phương.

Năm sau, cụ Hồ lại mời tôi đến giao cho một nhiệm vụ quan trọng. Người đến mời là Nguyễn Hữu Đang. Tôi biết Đang từ hồi này.

Cụ Hồ nói: Ta sẽ ký với Pháp một tạm ước, nhưng lại muốn đạt được cao hơn một tạm ước. Sẽ có hội nghị, lúc đầu ở Việt Nam (Đà Lạt), sau ở Pháp. Nhờ Ngài xây dựng cho lập trường Việt Nam để đi đấu tranh. Tôi từ chối, nói còn có nhiều người giỏi hơn tôi. Cụ Hồ khẩn khoản: Tôi đã hỏi nhiều anh em, họ đều bảo chỉ có Ngài làm được, xin Ngài về suy nghĩ và giúp cho Chính phủ. (Hồi này cụ Hồ cứ gọi tôi là Ngài !).

Đi Đà Lạt là Đoàn Liên hiệp các đảng phái. Trưởng đoàn là Nguyễn Tường Tam. Phó là Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh, nhưng khi họp đoàn ở Bắc Bộ phủ thì không thấy hắn đến. Không thuộc đảng phái nào thì có Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên và tôi.

Lúc tiễn đoàn lên đường, cụ Hồ nói to: Xin chúc anh em đi thành công, đặc biệt tôi có lời khuyên: Nội bộ đoàn kết, phải đấu tranh găng nhưng không được gãy. Hoàng Xuân Hãn có viết hồi ức về Hội nghị nhưng không nhắc lại chi tiết quan trọng này, tôi hỏi thì anh bảo quên!

Các thành viên của Đoàn ta đều nói thạo tiếng Pháp nhưng để biểu thị là Đoàn đại biểu của một nước Việt Nam độc lập, ta chỉ phát biếu ý kiến bằng tiếng Việt. Có một phiên dịch, nhưng dịch dở quá, Tây không hiểu được, tôi tự động đứng ra dịch thay. Phía Pháp nghe rất khen ngợi.

Kết thúc hội nghị, D’Argenlieu có tổ chức tiệc trà tiễn Đoàn. Một sĩ quan hầu cận Pháp đến nói: Thủy Sư Đô đốc muốn gặp riêng Ngài. Tôi nói: Tôi chưa hân hạnh được quen biết Ngài Thủy Sư Đô đốc. Có anh em nói: Nó mời thì anh cứ đi, tôi đi xuyên qua phòng họp, đông khoảng một trăm người, đến gặp nó, chỉ toàn nói chuyện xã giao vớ vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư luận nói : “Tường là tay trong của Pháp, Tường phản quốc”, Hãn tức, đến gặp Võ Nguyên Giáp, dư luận mới được dập tắt.

Năm 1946, tôi đang cãi ở Hải Phòng thì tiếng súng toàn quốc khang chiến bùng nổ. Tôi phải đi đường Nam Định để về Hà Nội, rồi tản cư đi Hà Nam, ở Ngô Khê. Nó đánh Hà Nam, chạy sang Thái Bình, ở Hưng Nhân. Nó đánh Thái Bình, chạy vào Thanh Hóa. Hồi dạy Dự bị Đại học, tôi ở dốc Đu, Thiệu Hóa, bên cạnh là nhà Hồ Đắc Liên, gần nhà Nguyễn Khánh Đàm, anh ruột nhà văn Nguyễn Tuân.

Điện Biên Phủ thắng lợi, được về lại Hà Nội. Tôi vinh dự được tiếp quản trường Đại học Luật và Đại học Sư Phạm. Được cử làm Giám đốc Đại học Luật, Đại học Sư Phạm thì Đặng Thai Mai làm Giám đốc, tôi làm phó, cùng với Trần Văn Giàu. Tôi vui sướng được dạy Văn học Pháp.

Năm 1952, tôi được cử đi dự Hội nghị bảo vệ Hòa Bình châu Á- Thái Bình Dương ở Bắc Kinh. Ba tháng sau đi dự Đại hội Hòa Bình Thế giới ở Vienne. Tại Vienne có cuộc gặp riêng giữa hai đoàn Việt - Pháp. Bên ta có nữ Anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiến, bên đoàn Pháp có Raymond Dienne. Xuân Thủy bảo tôi: Anh phải nói vài lời, chứ ngồi nhìn nhau thê này à!

Tôi đứng dậy nói: Trong khi máy bay của quân viễn chinh Pháp quần đảo trên bầu trời đất nước chúng tôi thì đêm xuống học sinh chúng tôi vẫn học tiếng Pháp, thưởng thức văn chương của các văn hào Pháp. Đoàn Pháp rất cảm động, họ yêu cầu tôi viết lại để đăng lên báo Bảo Vệ Hòa Bình.

Sau đó là đến thời Cải cách ruộng đất.

Ở Hội nghị của Mặt trận Tổ Quốc, họp ở Hà Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi ông Trường Chinh, thay mặt Đảng Lao động Việt Nam, tự phê bình về các sai lầm đã phạm trong Cải cách ruộng đất, tôi đọc bản tham luận Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo. Từ góc độ một người hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự. Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn, rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn. Tôi như thành một người “phạm pháp quả tang”, bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa. Từ 1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi. Tuy vậy, tôi đã lợi dụng thời gian rảnh rỗi này để viết sách, trong đó có cuốn Lý luận giáo dục châu Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, tôi cố ý viết bằng tiếng Việt để lãnh đạo có thể đọc được.

Tôi đánh giá rất cao nền Văn học châu Âu, từ Văn học Hy Lạp - La Mã đến Văn học Pháp, từ Montaigne đến Rousseau. Theo tôi, về xây dựng con người ta thiếu cân bằng giữa trí tuệ và tình cảm, về phương pháp tư duy ta nặng về ý chí không tưởng mà nhẹ về duy lý và đầu óc phê phán.

Năm 1989, tôi sang Pháp và lưu lại Pháp 4 tháng. Phóng viên Le Mon de đến phỏng vấn. Họ muốn tôi lợi dụng cơ hội này để trả thù. Tôi lấy ý “cú đá của con lừa” trong thơ ngu ngôn của La Fontaine để trả lời, tôi nói: Chỉ có con lừa mới đá con sư tử già, người tri thức đâu phải là con lừa!

Họ lại hỏi: Ở Roumanie, Ceausescu đã sụp đô, Việt Nam thì sao?

Tôi trả lời: Roumanie là Roumanie, Việt Nam là Việt Nam. Ceausescu thì so sánh thế nào được với Hồ Chí Minh. Trên đất nước vệt Nam, Đảng Cộng San vệt Nam là mạnh nhất. Không thể lật đổ Đảng Cộng Sản Vệt Nam nhưng nó Phải được tổ chức tại, phải sa thai bọn tham ô. Phải tập lại truyền thống Diên Hồng và lắng nghe ý kiến của nhân dân.

Họ lại hỏi: Thế theo ông, bao giờ thì có cách mạng dân chủ ở vệt Nam ?

Tôi đọc câu thơ của Paul Valéry:

patience, patience,
patience dans l’azur!
Chaque atome de silence
Est ra chance d’un fruit mur!

Kiên nhẫn, hãy kiên nhẫn,
Kiên nhơn trong trong xanh!
Mỗi sát-na yên tịnh
Cơ may một quả lành!
( dịch)

Ông Phạm Bình, Đại sứ ta ở Pháp hồi đó mời tôi đến thăm Sứ quán, tôi vừa vào, ông ôm hôn nồng nhiệt. Các vị lãnh đạo ở Hà Nội cũng hài lòng”.

Hà Nội, tháng 10/2009

__________________________
Hồn Việt chú: Nhân đây, cần nói thêm, cuốn Hồi ký của GS Nguyễn Mạnh Tường do Võ Văn Ái, một phần tử chống đối Việt Nam nhẵn mặt, in và xuyên tạc bản thảo, đã làm GS rất bực, theo lời con gái GS Nguyễn Mạnh Tường.