Tờ Nhân Văn số 1 và bài phỏng vấn luật sư Nguyễn Mạnh Tường về dân chủ. Ảnh: DR
Nhân Văn Giai Phẩm
Nguyễn Mạnh Tường
Năm 1946, ông được chính phủ Hồ Chí Minh cử đi dự Hội nghị Đà Lạt, nhưng vì xung đột với Võ Nguyên Giáp, nên không được dự Hội nghị Fontainebleau .
Từ 1947 đến 1950 ông làm trạng sư ở khu III . Trong khi bênh vực cho các bị cáo trước tòa, ông hay dùng lời lẽ văn hoa để "nói mát" chế độ, nên ông bị chuyển sang ngành giáo dục .
Ông bị coi là phần tử "ngoan cố", không chịu "lột xác" nên thường bị đả kích . Có lần cán bộ đặt ra vở kịch nhan đề là "Phải hấp lại" để lăng mạ ông, nhưng ông không thèm trả lời .
Từ 1952 đến 1954 ông dạy ở trường Dự bị Đại học, và sau ngày đình chiến, ông được về dạy ở trường Văn khoa Đại học ở Hà Nội . Chúng tôi giới thiệu ông Nguyễn Mạnh Tường bằng hai bài của ông . Một bài nhan đề " Vừa khóc vừa cười " để giới thiệu ông Nguyễn Mạnh Tường Tiến sĩ văn khoa, và bài Những sai lầm trong Cải cách Ruộng Đất để giới thiệu ông Nguyễn mạnh Tường Tiến sĩ luật khoa .
Trong 1 thiên anh hùng ca sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ XI, thi sĩ tường thuật cuộc chiến đấu anh dũng của 2 anh hùng Roland và Olivier, chống lại kẻ thù chung . Hai bạn chí thân giết được nhiều địch, nhưng hai người đều bị thương cả . Dặc biệt Olivier , máu chảy nhiều, hoa cả mắt, không nhận thấy gì nữa . Khi Roland la,i gần để giúp bạn, Olivier tưởng nhầm là kẻ thù , bổ mấy nhát dao xuống, may không trúng đầu Roland . Anh này bèn dịu dàng lên tiếng : "Tôi là Roland đấy mà . Sao anh đánh tôi ?" Olovier xin lỗi bạn : "Mắt tôi hoa, không nhận ra anh nữa".
Khi Âu châu chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư sản, trong thế kỷ XVI, Rabelais kể chuyện Badebec, vợ của Gargantua, vừa sinh con xong thì từ trần : "Cái thắc mắc làm cho Gargantua rối trí là hắn không biết nên khóc vì vợ vừa chết hay nên cười vì con vừa sinh" .
Đến cuối thế kỷ thứ XVìI, khi cách mạng 1789 sắp bùng nổ, Figara một nhân vật của Beaumarchais, sau khi kiểm điểm tình hình của 1 xã hội đã thủ tiêu hết mọi tự do kêu lên : "Tôi vội vàng cười khì để tránh khỏi khóc oà" Như thế không đúng .
Phải khóc trên cái hiện thời để cười đó cái ngày mai . Dù sao người trí thức là người vừa khóc vừa cười . Khóc vì cái sai lầm phải chứng kiến trong hiện tại, cười vì vui cái mới đang đến . Khóc vì đau khổ , cười vì hy vọng . Khóc hôm nay để cười ngày mai . Trên quá trình biến đổi từ cái khóc đến cái cười diễn ra cuộc tranh đấu tư tưởng của người trí thức .
Người nào chỉ biết hoặc khóc thôi, hoặc cười thôi, không phải là người trí thức .
Ta ân cần với người trí thức ưa khóc . Ta phải chiếu cố nâng đỡ người ấy . Người ấy đau khổ vì các thắc mắc căn bản và sâu sắc . Người ấy thành khẩn . Người ấy không phải là thù, người ấy là bạn . Ta phải kiên trì, cố gắng đưa cái khóc của người ta biến thành cái cười .
Ta dè dặt, có khi ngần ngại trước người trí thức ham cười . Ta hoan nghênh cái cười chân thật, xuất phát từ đáy lòng, nẩy nở trên các giọt lệ vừa khô . Nhưng ta khó chịu trước cái cười bình phong dùng để che đậy các thắc mắc bản thân mình không muốn thú với mình . Ta ghét cái cười dùng để mị trên lừa dưới, câu các kẻ ngây thơ, biểu lộ 1 ý chí tôn sùng, hòng củng cố 1 điạ vị, hay mưu cầu 1 bổng lộc . Quần chúng cần đề cao cảnh giác để khỏi mắc mưu cái cười ấy . Cấp lãnh đạo lại cần cảnh giác hơn nữa vì cái cười nịnh hót nuôi dưỡng bệnh chủ quan mà cấp lãnh đạo thường mắc .
Cái cười nguy hại này không nhất thiết biểu hiệu bằnng sự nhích môi . Nó có thể là linh hồn của 1 cử chỉ, nội dung của 1 thái độ . Có người cười bằng cái đầu nó gật, cái lưỡi nó tán thành, ủng hộ . Trong bao nhiêu "tả khuynh", tôi nghe thấy vang tiếng cười ấy .
Tôi sợ người trí thức im lặng . Tôi nghi ngờ người trí thức cười . Tôi thương người trí thức khóc . Tôi yêu người trí thức vừa khóc vừa cười, khóc hôm nay để cười ngày maị "khóc lên tiếng cười"
TIN vẫn lợi hơn NGHI . Trong 10 người ta tin, có thể có 1 kẻ thù lẻn vào/. Nhưng ta vẫn còn 9 người bạn . Và 9 người bạn này sẽ giúp ta tìm kẻ thù ấy . Nếu ta nghi cả 10 người, khi ta giơ tay, chẳng ai bắt tay ta . Ta không có 1 bạn bạn nào cả .
Đồng ý rằng phải phân chia rõ rệt địch, ta . Nhưng ta phải xác định thái độ của ta với địch . Địch mưu hại ta và thực sự gây cho ta nhiều tổn thiệt . Nhưng ta chớ nên buộc cho nó trách nhiệm về các tai hoạ căn nguyên ở sự dốt nát, sai lầm, chủ quan của ta . Theo danh từ khá phổ biến : "như thế không lợi" . Không lợi vì ta đề cao địch, ta không sữa chữa được gì, không rút được bàihọc của kinh nghiệm . Từ trước tới nay ta chỉ đặt vấn đề : ai là ta ? Tôi đề nghị đặt thêm vấn đề : do địch làm, do ta phạm . Điểm trên, đề cao cảnh giácva cho phép ta đề phòng, hoặc đối phó . Điểm dưới nêu cao tinh thần tự phê và giúp đỡ ta xây dựng .
Con thỏ sợ đến cả bóng của nó . Con sư tử bất chấp mọi thú vật . Ta không phải là sư tử và cũng không muốn là sư tử . Nhưng nhất định ta không phải là thỏ .
Kẻ thù số 1 của trí thức : bọn chụp mũ . Kẻ thù số 1 của lãnh đạo : cấp cán bộ chuyên cười và vỗ ngực và cả bọn chụp mũ nữa . Các cán bộ chuyên môn cười, dựa vào bọn vỗ ngực trong quần chúng, ru ngủ cấp lãnh đạo . Bọn chụp mũ nha hiểm hơn : họ gây thành kiến giữa lãnh đạo và quần chúng, họ vô tình hay hữu ý xuyên tạc các nguyê,n vọng chính đáng, các yêu cầu hợp tình hợp lý hợp pháp của quần chúng . Họ là Iago súc xiểm Othello ghen vợ, giết vợ . Bị bao vây chặt chẽ như vậy, tài nào cấp lãnh đạo hiểu biết được sự thật của quần chúng ?
Có 1 số người thấy phong trào quần chúng đòi hỏi ơ ? Đảnh lãnh đạo 1 chính sách cho trí thức (với các tự do dân chủ va ` mối quan hệ tốt giữa chính trị và chuyên môn) đã tỏ thái độ "khó chịu" và phản ứng mạnh . Họ nhắm mắt, lắc đầu , chép miệng, thở dài . Không thực sự cầu thị, chưa điều tra nghiên cứu, chẳng tìm hiểu sự thật, họ chỉ mang đao to búa lớn ra doạ nạt, họ là Don Quichote cầm giáo tiến lên đâm cối xay, họ quên lý luận Cách mạng đã học tập . Họ là nàng công chúa quê thời kỳ gặp Thạch Sanh trong hang .
" Tích tịch tình tang ..." Tiếng đàn của Thạch Sanh có nhắc lại được kỷ niệm cũ không ? "Hỡi tuyệt thế giai nhân mà tôi yêu với 1 mối tình vô hạn, nàng còn nhớ thuở đôi ta gặp nhau trong hang đá không ? Đôi ta quyết tâm sống chết có nhau, với nhau/. Vì vậy ta thắng kẻ thù, ta sống/. Bây giờ thời kỳ gian lao đã qua, nàng trở về dinh cơ huy hoàng, lên xe xuống ngựa . Nàng nỡ lòng nào quê tình duyên cũ" (1)
Tôi muốn thân ái hỏi các bạn đang chép miệng thở dài : "Các bạn là những người cách mạng . Thái độ của các bạn phản ứng đối phó (tôi không nói đàn áp) trước 1 phong trào quần chúng đông đảo, đòi hỏi trên lập trường cách mạng, những quyền lợi chân chính, thái độ ấy, phân tích, truy nguyên nó, ta thấy gì ? Tôi run sợ trước kết luận tôi phải tiến tới . Tôi ngừng bút . Tôi nhường lời cho tất cả các người cộng sản trên thế giới, trong đó có các đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, có các bạn, để các người ấy nhận định về thái độ nói trên , định danh cho nó, gọi nó bằng tên cách mạng của nó (2). Để tránh khỏi mang tiến chụp mũ cho các bạn, tôi dành quyền phán định cho giới có thẩm quyền .
Tôi xin nhắc lại rằng trong lịch sử cách mạng Liên Xô và Trung Quốc, khi giai đoạn kiến quốc tiến vào bước quyết liệt, chính thể cách mạng không thể nào lạnh nhạt được vấn đề trí thức . Cuộc tranh đấu của trí thức Việt nam hiện thời xen vào khuôn khổ cách mạng, phối hợp với phong trào trí thức trên toàn thế giới . Coi nhẹ nó là 1 sai lầm . Giải quyết nó 1 cáh hời hợt, nông cạn với tinh thần của người lớn cho kẹo trẻ con để nó khỏi khóc, là 1 sai lầm nghiêm trọng . Đối phó với nó, chống lại nó ... tôi không tiếp tục vì tôi tin rằng không 1 chính thể cánh mạng naò lại hành động như vậy .
Bằng chứng là báo Nhân Dân trong số 30-9-56 vừa đăng bài của đồng chí Lục Định Nhất đọc ngày 26-5-56 với sự chậm trễ có 4 tháng thôi . Từ Bắc kinh tới Hà Nội , đường dài hơn năm nghìn cây số , tốc độ của sự thật như thế là nhanh rồi . Còn báo cáo của đồng chí Chu Ân Lai in từ ngày 30-1-1956, tôi không nhớ đăng báo Nhân Dân ngày nào . Dù các bạn thất rõ là Đảng Lao Động Việt nam coi trọng vấn đề, như Trung quốc từ đầu năm nay, như Liên xô từ năm 1936, Đảng lại còn phát động tinh thần dân chủ trong quần chúng trong các giới, các cơ quan, và sở dĩ làm như vậy là để thắt chặt liên lạc với quần chúng, đi sát với sự thật của quần chúng, trưng cầu ý nguyện của quần chúng để xây dựng chính sách, lãnh đạo có kết quả .
Vậy tai sao các bạn lại chép miệng thở dài ? Lại xuyên tạc ý nghĩa trọng đại, lịch sử của 1 phong trào quần chúng, mà chính Đảng phát động ? Thế các bạn tranh đấu cho ai, phục vụ cái gì ? Chủ trương của Đảng phát huy dân chủ là 1 sáng kiến mà toàn dân hoan nghênh . Hạt đã gieo bây giờ sắp đến lúc gặt hái . Cớ sao các bạn lại muốn truất quyền của Đảng gặt hái cái mùa màng mà Đảng dã gieo hạt ?
Nhưng tôi hiểu các bạn . Các bạn là những người tốt . Chẳng qua các bạn chỉ nặng về 1 số thành kiến mà thôi . tuy nhiên, các bạn thực sự cầu thị : các bạn cho phép tôi tin như vậy . Phải không các bạn ?
(1) : Nên hiểu nàng công chúa là cán bộ lãnh đạo đảng Cộng sản và Thạch Sanh là giới trí thức kháng chiến .
(2) Tác giả muốn nói : phản cách mạng
L. S. G. Ông Nguyễn Mạnh Tường đã đọc bài diễn văn này trong một cuộc họp của Mặt trận tổ quốc Hà nội ngày 4 tháng 10 năm 1956 với tư cách đại diện cho trí thức ở Thủ đô .
Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức có tính cách "táp nham" mà chính quyền Cộng sản thành lập với mục đích để lùa những phần tử "lừng chừng" vào cho tiện bề kiểm soát . Nó là biến thân của Mặt trận Liên Việt (LV) ngày xưa mà đã có người gọi là Mặt trận Lờ Vờ, hoặt tệ hơn nữa là : Mặt trận Lông Vịt
Vì tính cách phức tạp của các hội viên mà đa số thuộc các thành phần "bất kham" nên sự kiểm soát của Đảng không mấy khi được chu đáo . Trong mấy tháng mùa Thu năm ngoái, vào lúc chính quyền đương bị giao động, thì sự kiểm soát đó gần như mất hiệu quả . Đó là lý do khiến luật sư Nguyễn Mạnh Tường có dịp lợi dụng cơ hội và hoàn cảnh đả kích kịch liệt chế độ bằng bài diễn văn này .
Bài này không được đăng trên các báo xuất bản ở Hà Nội, nhưng không biết bằng cách nào đã lọt tới Rangơn, sang Paris .
Bài diễn văn của ông Tường đã làm rung động thế giới vì lần đầu tiên có một nhà luật học đứng trên lập trường pháp lý của các nước văn minh lên án chính sách của ông Mao Trạch Đông về chương trình Cải cách Ruộng Đất đề ra từ 1926 và áp dụng lần đầu tiên ở Hồ Nam . Ngày nay, vưà đúng 30 năm về sau, và dựa trên kinh nghiệm đau sót của Bắc Việt, ông Tường lớn tiếng tuyên bố rằng chính sách đó quá ư dã man, không có mảy may nhân đạo và hoàn toàn trái với các nguyên tắc căn bản của pháp lý mà nhân loại công nhận hàng mấy ngàn năm nay .
Ông Tường cũng là người trí thức Việt Nam đầu tiên, sống dưới chế độ Cộng sản, mà có can đảm lớn tiếng nói rằng : "Tôi là trí thức", không có tự ti mặc cảm, không "mất khí thế của giai cấp"
Nhà văn hào Nga Boris Pasternak trong tác phẩm (Bác sĩ Zhivago) của ông, cũng nhắc lại một câu thơ của Puchkine : ;"Ta là tiểu tư sản, Ta là tiểu tư sản" để nói rằng thành phần tiểu tư sản không có gì đáng hổ thẹn cả . Sự giác ngộ và đoàn kết của cấp tiểu tư sản sẽ chận đứng và tiêu diệt chế độ Cộng sản trong hậu bán thế kỷ hai mươi . Đó là ý kiến chung của giới trí thức sống trong bức màn sắt .
-------------------------------
Thưa các quý vị
Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy . Hôm nay tôi được đúc kết trước toàn thể Hội nghị các ý kiến mà trong 10 ngày vừa qua, tôi đã trình bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí thức không bao giờ quên trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử nước nhà .
Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng lao động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị . Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi, một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất . Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của chúng ta .
Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hy sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng, vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch . Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở .
Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh . Chúng ta đã xóa bỏ cái ô danh đó, những con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi ? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được ? Nếu chúng ta duy tâm và tin rằng linh hồn còn tồn tại, thì một phần nào, ta chuộc lại được lỗi của ta . Nhưng ta duy vật và các người ấy lúc chết cũng là duy vật .
Do đó, cái nỗi khổ cực của họ, ta biết rõ rằng, bây giờ ta không thế nào thủ tiêu được nữa . Quyền hạn của ta không tới đó . Nhưng cái gì ta có thể làm được, ta cần làm, để như là đền bù một phần nào sự tổn thiệt của các người ấy, và chứng minh ta thấm thía nỗi đau khổ của họ khi từ trần, là ta cương quyết rút bài học kinh nghiệm đau đớn và sửa chữa các sai lầm nghiêm trọng mà họ là nạn nhân .
Với tinh thần của một người trong quần chúng, của một người công dân đau khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội, tôi xin phép trình bày mấy ý kiến xây dựng . Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất nhưng theo ý tôi, các sai lầm này chỉ là biểu hiệu điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Đảng Lao Động . Do đó tôi xin phép được góp ý kiến xây dựng quan niệm lãnh đạo của Đảng Lao Động .
Tại sao tôi lại tin như vậy ? Là vì, không những trong Cải cách Ruộg đất, chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa . Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết thê thảm . Do đó nếu chỉ cục bộ hóa các sai lầm chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ khiếm khuyết với sự tín nhiệm của tất cả đảng viên Đảng Lao Động với sự mong đợi của toàn dân . Chúng ta phải cương quyết không cho các sai lầm ấy tái diễn và tác hại nữa . Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với các người đã chết oan .
Tình hình nước ta hiện thời ra sao ? Tình hình ấy có bi quan không ? Đó là vấn đề nhận định thôi . Nhưng cái chủ yếu là ta không nhìn tình hình ấy với con mắt bi quan . Vậy sự thật khách quan như thế nào ?
Nhìn vào nông thôn, ta thấy hiện thời tình trạng thiếu đoàn kết rất phổ biến . Vì thi hành sai chính sách cải cách, ta đối lập các từng lớp trong giai cấp nông dân, cán bộ cũ và mới, chi bộ cũ và mới của Đảng . Trong khi đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người hoặc già cả, hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu diệt . Ta chỉ cần đọc bài giáo huấn cho đồng bào nông thôn đăng trong báo Nhân Dân là ta đủ hiểu mặt mũi nông thôn hiện thời ra sao .
Nhìn về các công xưởng công trường, ta thấy gì ? Cứ đọc báo Nhân Dân thôi, ta thấy Chính phủ gởi các phái đoàn đi thăm các anh chị em công nhân, ủy lạo họ, bắt buộc thi hành quy chế lao động mà Chính phủ đề xuất hai năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức . Lắng nghe dư luận đồng bào Hà Nội thôi, ta được biết rằng có ít ra một doanh nghiệp quốc gia lãng phí bao nhiêu triệu trong khi dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh nghiệp ấy mang lại cho thực dân đế quốc các số lãi khổng lồ .
Về mậu dịch nữa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết . Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nhiêu nghìn triệu khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá càng ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó . Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch .
Về hộ khẩu thì thì cán bộ tỏ vẻ không phải là nhằm duy trì trật tự an ninh, phá vỡ cơ sở của địch, trái lại quấy nhiễu nhân dân, tạo ra một đời sống thành thị điêu đứng cho tất cả. Nếu các vị cần những dẫn chứng cụ thể, tôi chỉ xin nhắc lại hồ sơ mênh mông, thu lượm các thắc mắc cay đắng của đồng bào Thủ đô, trong đại hội lần thứ 3 của nhân dân Hà Nội vừa họp cách đây 2 tháng .
Nói về chính sách khôi phục kinh tế ta thấy gì ? Số vốn mà các nhà công thương mang ra kinh doanh chỉ là một phần ti tiểu, số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa lý gì . Trái lại ta thấy tất cả một phong trào các nhà tư sản thu hẹp hoạt động của họ, hoặc "chuyển hướng" bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước mía, hay dệt vài thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào vốn để khỏi đụng chạm đến Sở Lao Động vì vấn đề công nhân, với sở Công Thương vì vấn đề đăng ký và nguyên liệu sản xuất, với sở Tài Chính vì thuế khóa đặc biệt .
Thuế bổ xung đã đưa bao nhiêu người đến chỗ phá sản, có kẻ đến chỗ tự sát . Các người tiểu thương buôn thúng bán mẹt, đẩy chiếc xe hàng tiều tụy trong phố cũng "được" nộp thuế, cũng như các người suốt ngày làm việc ở công sở hay công xưởng, tối về thức đêm dệt vải thước kiếm thêm tiền độ thân .
Hàng trăm, hàng nghìn công chức cũ về hưu, với gia đình của họ, trước đây sống . bằng lương hưu trí, hai năm nay không được ai chiếu cố đến, chết dần chết mòn, có người đâm đầu xuống sông tự tử, có người hai lần uống thuốc độc để quyên sinh .
Còn như các cán bộ thì ta có cần nói đến không ? Ta cứ trông mặt mũi, quần áo họ, ta chỉ cần hỏi con số những người qua các phòng khám bệnh các bệnh viện, ta liếc mắt nhìn họ ăn uống những gì trong bữa cơm, là ta đủ hiểu khổ cực của họ . Ta quên thế nào được các đồng bào tập kết ra ngoài Bắc, số phận con cái họ ở Hà Nội, số phận chính của họ, bi đát quá nỗi ! Khổ cực nhất cho các anh chị em, là không nương tựa được vào đời sống gia đình để khuây khỏa trong lúc thảm sầu .
Các hiện tượng trên đây có đúng không, tôi chỉ yêu cầu các vị đọc báo Nhân Dân, nghiên cứu các hồ sơ chồng chất lên ở Mặt trận Thành Hà Nội sau lần đại hội thứ 3 vừa rồi, nghe ngóng lời than phiền của quần chúng, nhìn nhận các quang cảnh diễn ra dưới mắt của các quý vị là các vị đủ hiểu rồi .
Quả thực như ông Trường Chinh đã tuyên bố, uy tín của chính phủ của Đảng bị tổn thiệt rất nhiều . Thế tại sao đồng bào của chúng ta lại khổ cực ? Phải chăng vì cán bộ của ta non, hẹp hòi, chưa thấm nhuần lý luận cách mạng, không tôn trọng giá trị của con người, các nhu cầu và đòi hỏi chính đáng của nó ? Phải chăng vì ta đang mắc trầm trọng bệnh ấu trĩ của cách mạng ?
Các điều đó là có, ta không hề chối và không thể chối cãi được . Nhưng nhận định như vậy vẫn còn hời hợt . Ta phải đi sâu hơn nữạ Khi trong Cải cách Ruộg đất của ta, ta thấy bao nhiêu người bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân ưu tú đã từng đóng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời, ở nông thôn, vẫn có người bị đánh đập, ngược đãi, khi ta không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận định rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải cách Ruộng đất này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đã phạm và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lãnh đạo của Đảng Lao Động .
Do đó tôi yêu cầu các vị cho phép tôi bắt đầu nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách đã rồi sau khi truy nguyên các sai lầm ấy, để đạt mấy ý kiến về vấn đề lãnh đạo .
I . Vấn Đề Pháp Lý Trong Cải Cách Ruộng Đất
II. Các Nguyên Nhân Sai Lầm
III Phương Pháp Sữa Chữa Các Sai Lầm
I. Vấn đề pháp lý trong cải cách ruộng đất
Ta đa sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất , ta có thể tránh được sai lầm ấy mà vẫn đảm bảo được đường lối căn bản của cách mạng không ? Tôi xin giả nhời cương quyết rằng có .
Đường lối cách mạng của ta đòi hỏi gì ? Ruộng phải trở về người càỵ Điều này rất đúng, không ai có thể chối cãi được . Nông dân là đại đa số trong nhân dân, nông dân là quân đội chủ lực của cách mạng, nhất định cách mạng không thể nào thành công được, nếu ta không thoả mãn nhu cầu thiết yếu và cấp bách của nông dân . Không cần phải là một nhà chính trị cao, một nhà cách mạng thạo, cũng nhận thấy điều ấy . Chỉ cần nhìn lịch sử cách mạng từ thời kỳ cổ đại đến giờ là đủ hiểu rồi .
Như vậy nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải cách Ruộng đất .
Về phương pháp, ta có nên ban ơn cho nông dân không ? Nhất định là không. Nông dân ta, trong bao nghìn năm đã khổ cực dưới chế độ bóc lột phong kiến và một trăm năm nay, dưới chế độ thực dân . Đồng bào nông thôn ta lầm than như vậy, đã mất hết khí thế con người . Ta cần khôi phục khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần chủ nhân ông trên đất nước . Do đó, ta thấy cần thiết phải phát động tư tưởng của họ để họ nhận được phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng giậy nắm lấy quyền thế ở nông thôn .
Nhưng từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm . Sai lầm này, ông Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ : ta quên hẳn ta hiện thời nắm chính quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết xử dụng nó, khai thác nó một cách sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được bao tai họa làm ta đau khổ hiện thời .
Con đường ông Trường Chinh đã đi để tiến tới kết luận ấy là con đường chính trị . Các anh em tôi là nhừng nhà luật học,chỉ là nhà chuyên môn và lý luận trên cơ sở chuyên môn mà thôi, đã trông thấy kết luận ấy ngay từ khi chính sách phát động và Cải cách được đề ra . Tại sao ? Vì giải pháp chính quyền cụ thể là giải pháp pháp lý, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của cách mạng nếu ta biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng .
Ta muốn gì ? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó . Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng, công lý của cách mạng muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách mạng, phải biết đánh đúng địch . Khi đưa ra khẩu hiệu "thà chết 10 người oan còn hơn để sót 1 địch" thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý, mà phản lại cách mạng là đằng khác nữạ Muốn chứng minh điều này, ta chỉ cần nhìn thực tế : kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này, rất tổn thiệt uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì ?
Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn : "Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan". Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không ? Không, vì ta nắm chính quyền, vì cách mạng đã thành công . Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm; nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ hoặc lọt vào lưới của ta . Khẩu hiệu này lợi ở chỗ : không một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời .
Một nguyên tắc đầu tiên là không hình phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra . Tại sao ? Vì rằng vấn đề bằng chứng khó giải quyết được. Tang vật đã mất, nhân chứng có người đã từ trần, có người không nhớ rõ các sự việc họ đã mục kích . Hơn nữa, sở dĩ hình luật phạt các tội, là vì các tội ấy đã xâm pham vào trật tự xã hội : tác hại cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong quần chúng . Nhưng khi tội phạm quá lâu, trật tự xã hội hết bị xâm phạm rồi, nạn nhân không còn đau khổ, tác dụng xấu của tội cũng hết, thời gian đã hàn gắn các vết thương . Bây giờ lại vạch chuyện cũ thì không những khó thu thập được bằng chứng kết tội mà lại gây một sự náo động trong xã hội không cần thiết . chính xã hội thấy "quên" lợi hơn là "nhớ".
Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung của vợ con, của gia đình. Nếu trách nhiệm trước hình luật của các người "có quan hệ" với phạm nhân không những là bất công mà lại còn gây các sự rung động vô ích trong xã hội . Hơn 400 năm nay không một nước tây phương nào làm việc đó nữạ Trách nhiệm trước hình luật chỉ là một trách nhiệm cá nhân mà thôi, Không những thế, về phương diện nhân đạo, thì các phạm nhân quá già được miễn nghị, miễn tố và các vị thành niênđược chiếu cố .
Một nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người thì phải có bằng chứng xác đáng . Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn . Một nhân chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau, mới được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp với nhau và trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được phải có tác dụng hợp lý, sát hợp với kết quả do cuộc điều tra mang lại .
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của tố nhân . Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là 1 trọng tội . Toà phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn điều tra ở trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm, buộc tội trước toà quyền lợi của công tố viện ngang với quyền lợi của bị can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lý lẽ để minh oan.
Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra, truy tố, xét xử giữa công tố viện và luật sự Các vị thẩm phám ngồi xét xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai trong khi xét xử, chỉ biết xử theo lương tâm của mình và căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tộị Người thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình, mà không sợ ai khiển trách hay gây khó khăn cho mình được.
Khi điều tra, thẩm vấn tuyệt đối không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, doạ nạt hay dụ dỗ hắn. Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án, thì có quyền chống án lên toà trên. Nếu bị bị kết án tử hình, thì lại có quyền xin ân giảm trước vị chủ tịch chính phủ. Con người của bị can, trong tất cả quá trình truy tố và xét xử, phải tôn trọng triệt để, khi bị can ra trước toà thì không được xiềng xích họ và không lúc nào được dùnh nhục hình đối xử với họ
Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một người tác hại cho một người khác, mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước hình luật . Tác hại cho ai, thì chỉ nêu trách nhiệm, về phương diện dân sự nghĩa là bồi thường thôi, của người đã tác hạị Muốn truy tố người ấy để thi hành luật đối với hắn, thì phải chứng minh rằng hắn phạm một tội, nghĩa là phạm vào một điều khoản nào quy định trong hình luật, và hình luật không bao giờ có tác dụng đối với quá khứ cả : nếu hành động của một người diễn ra trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là 1 tội, thì người không thể bị mang ra truy tố được.
Không những bị can phạm 1 tội đã quy định rồi trong pháp luật, mà lại còn phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy, bị can ó ý thức, có ý chí phạm pháp không hay là vô tình mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhaụ
Lúc tôi nhắc lại các nguyên tắc này thì có vị cho rằng như thế là phiền phức, phức tạp. dĩ nhiên rồi, nhưng tất cả vấn đề là : ta có muốn giết người vô tội không ?
Nếu không thì không thế nào làm khác được . Hơn nữa, muốn nhận định vấn đề cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một người hiện thời không dây dưa với pháp luật, một người ở cương vị chính quyền. Ta phải đứng vào cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất sáng tỏ, không những ta đòi thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta còn cố gắng tìm hiểu thêm các nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị chết.
Nếu mang ra áp dụng các nguyên tắc ấy vào cuộc Cải cách Ruộng đất của ta, ta sẽ làm thế nào ? thủ tục cải cách cứ diễn bài nhưng sự trừng trị bọn cường hào gian ác hay phản động, ta sẽ không giao cho một toà án nhân dân đặc biệt như ta đã làm, với tất cả sự thiếu sót về phương diện pháp lý mà ta đã biết. Trái lại sau khi phát động tư tưởng của nông dân, ta sẽ nghe lời họ tố cáo kẻ thù của họ. Ta sẽ ủy nhiệm toà án nhân dân thường lập các hồ sơ, để toà án với bộ máy và kinh nghiệm của nó, tiếp tục điều tra, kiểm tra, lấu cung chứng, truy tố, luận tội, xét xử.
Ta đảm bảo triệt để cho bị tố nhân quyền bào chữa của họ, ta yêu cầu các luật sư làm tròn nhiệm vụ của họ, ta tôn trọng triệt để con người của bị tố nhân . Ta chỉ thù ghét và kết án, trừng phạt, tội của nó đã phạm thôi . Ta tin tưởng ở tòa án, ta đảm bảo cho các vị thẩm phán làm việc ngoài sự điều khiển của chính quyền, một cách biệt lập, tôi nói biệt lập chứ không phải độc lập, theo lương tâm của các vị và căn cứ vào hồ sơ và kết quả của cuộc thẩm vấn .
II . Các nguyên nhân sai lầm
Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngaỵ Sở dĩ mà khi nghiên cứu chính sách Cải cách, ta không nghĩ đến đến giải pháp pháp lý đưa ra để điều hoà với giải pháp chính trị, phải chăng là vì ta không biết giải pháp pháp lý ? Nếu không thì là sự thiếu xót nghiêm trọng của cấp lãnh đạọ Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu . Sở dĩ ta không để ý đến giải pháp pháp lý là vì 3 lý do :
1) Quan điểm ta địch, thù bạn của ta rất mơ hồ
2) Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn áp pháp lý
3) Ta bất chấp chuyên môn
a) Quan điểm bạn thù, ta địch mơ hồ --- Các hiện tượng trên trường quốc tế và trong nước rất nhiều và rõ rệt .
Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy những điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữạ Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người ấy được khôi phục sống quyền, đang tịch, cương vị, người nào bị kết án tử hình rồi thì được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà Tổ quốc ghi tên muôn đời
Trong nước ta, qua cuộc Cải cách ruô,ng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người được gắn tới 2 huy chương kháng chiến (ở ngoại thành Hà nội), bị kết án là phản động, cường hào gian ác, và sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình . ấy là không nói đến các người trong quần chúng bị hy sinh oan. Đối với các nạn nhân này, ta có thể một phần nào, hiểu sai lầm đã phạm, vì họ thiếu hay không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các đảng viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đã biết, thì ta tự hỏi trong đầu óc của những người xử họ có cái gì ma ta gọi là lý tinh không ? Ngay một thường dân, không phải là một nhà chính trị hay văn hoá, chỉ xử dụng cái lẽ phải của mình thôi , cũng không thể nào hỗn hợp người xấu với kẻ tốt được. Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ trên xuống dưới, tham gia Cải cách ruộng đất, không phải là người điên cuồng, cũng không phải là người chủ mưu, dụng tâm phá hoạị Nếu như thế thì ta gửi họ đến bác sĩ chuyên môn chữa bệnh thần kinh, hay đến các công tố viện của các toà án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậỵ Do đó, kết luận mà ta tiến tới, dù muốn hay không là các cán bộ ấy có một quan điểm rất mơ hồ về ta, thù, bạn địch.
Còn gì đau đớn hơn là câu ta được nghe "ta đánh cả ta nữa". Nếu như vậy, thì ta phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc lại cái bài gần đây đăng trên báo Nhân Dân của các đồng chí bị xử trí oan, hoặc các đồng chí nói, hoặc không nói, nhưng ta đều phải hiểu các đồng chí ấy bị nghi ngờ những người đã kết án các đồng chí, không phân biệt được bạn và thù. Vì vậy nên đánh cả bạn, giết cả bạn.
Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu ? Phải chăng ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến nỗi mù quáng, ở một tả khuynh mà ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng ?
Đây không phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấỵ Chủ yếu là ta nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất mơ hồ. Nếu ta không kịp sữa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm thù bạn, một ngày kia ta phải khóc trên kỷ niệm của các vị có công nhất với cách mạng, với nhân dân . Ta cương quyết không thể nào để tình trạng ấy tái diễn ra được .
b) Bất chấp pháp luật : Giáo sư Ba lan Mahelli nói chuyện ở bộ tư pháp, cho ta biết rằng bên Ba Lan, khi cách mạng thành công các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo trong nghành tư pháp, để bó buộc tư pháp triệt để phục vụ chính trị mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của pháp lý.
Kết quả là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp sộc sệch, không những không cũng cố được chính thể cách mạng, ngược lại tác hại qua nhiều gây bao nhiêu khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy được uốn nắn kịp thời : hoàn cảnh khách quan đã dạy 1 bài học cho chủ quan các nhà chính trị. Sau đó phải giả lại cho tư pháp tính chất biệt lập của nó, và các nhà chính trị, để lãnh đạo chuyên môn, phải nhập trườn học tập, trước non hai năm, sau 5 năm để qua pháp lý, phục vụ chính trị và cách mạng.
Điều này không làm cho chúng ta ngạc nhiên . Trong giai đoạn đầu tiên, chính trị say sưa với các thắng lợi đã thu và dĩ nhiên, các thắng lợi ấy vĩ đại -- lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện . Nhưng quản trị 1 nước, đặc biệt 1 nước đang xây dựng chính quyền cách mạng nghĩa là 1 cái gì vô cùng mới mẻ, và khó khăn không giống như đường lối đề ra và khẩu hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng.
Hai khu vực hoạt động ấy, tuy quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mỗi nghành hoạt động có kỹ thuật và quy luật của nó. Lúc nhà chính trị bao biện, bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử, thì chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện thời làm chúng ta đau xót.
Trên con đường bao biện và tự mãn ấy các nhà chính trị bị thúc đẩy bởi những thành kiến đối với pháp lý và tin rằng pháp lý là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng, trái lại, pháp lý, chính giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là chính trị tự đặt mình lên trên pháp luật, còn giữ vững thái độ chân chính, cũng đã gây ra bao khó khăn rồị
Pháp luật chủ yếu đề ra những cái gì làm được, cái gì không được phép làm, do đó nhân dân vững tâm biết rỏ đường mà đị Nhưng tâm hồn quần chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng biết rỏ rằng cái gì bó buộc mình cũng đồng thời bó buộc nhà cầm quyền. Trái lại khi pháp luật chỉ gò bó quần chúng mà không gò bó nhà cầm quyền, thì nhà cầm quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà quần chúng chưa từng biết.
Vì vậy quần chúng hoang mang : cái gì hôm qua làm được, ngày mai với sự độc đoán của nhà cầm quyền, có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái độ này của nhà cầm quyền không những ảnh hưởng đến tương lai, mà lại ảnh hưởng cả về quá khứ nữạ
Đó là trường hợp nhà cầm quyền lúc tự đặt mình lên trên pháp luật, giữ thái độ chân chính, đúng mực huống hồ là khi nhà cầm quyền xử dụng quyền thế của mình một cách lộng quyền, như ông Trường Chinh đã nhận định. quyền xử tử người 1 cách đơn giản như vậy trái với luật pháp : đó chỉ là 1 giải pháp chính trị mà thôi . Nếu mà các người xử dụng quyền ấy, lại không xử dụng đúng với tinh thần chính sách của lãnh đạo, xử dụng một cách lộng quyền thì kết quả thế nào, hiện thời ta đã trông thấy rõ.
c) Bất chấp chuyên môn : Các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn và cho phép các nhà chuyên môn đề đạt ý kiến thì các nhà chuyên môn cũng sẽyêu cầu các nhà chính trị nên chú ý đến luật pháp, và dùng pháp luật phục vụ cách mạng.
Nhưng tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy 1 tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ "lập trường" làm ta mất ăn mất ngủ. Nếu được dùng 1 hình ảnh "duy tâm", tôi ví lập trường như cái oan hồn ngày đêm theo đuổi kẻ nào đã hãm hại người chủ của nó. Có 1 điều lạ, là các anh em công nông, các vị lãnh tụ không bao giờ nói đến lập trường trong sinh hoạt hàng ngàỵ Trái lại, các cán bộ và đảng viên tiểu tư sản không lo ngại gì bằng mất lập trường.
Vì vậy để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồị Đó là tinh thần tự ti của 1 giai cấp mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ cách mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đã xẩy ra những sự việc như sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở : khi chọn 1 người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi : "Có lập trường không ?". Kết quả là 2 năm nay, riêng trong thủ đô Hà nội, hằng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện, 1 bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là : Bệnh nhân thành phần giai cấp nào ? Chữa cho địa chủ thì "mất lập trường". Để nó chết mới chứng minh mình có "lập trường giai cấp" (hiện tượng do B.S. Nguyễn xuân Nguyên đưa ra).
Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy ? Là vì chính trị chiếm đóng, tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ cái chân lý. Chân lý cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được cho chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nếu như vậy thì ít ra chính trị cũng hỏi ý của chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc thì cho rằng chuyên môn là do văn hoá và khoa học tư sản đế quốc xây dựng, là vô dụng (đó là 1 sai lầm nghiêm trọng chứng minh rằng các người chưa đọc Lê nin).
Lúc thì cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất hiện ở từng lớp cơ bản, công hay nông, thì không có đảm bảo vì thái độ lừng khừng, lập trường lỏng lẽo, dù là 10 năm nay, họ đã bước chân vào đường cách mạng và chứnh minh nhiệt tình của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc kiến thiết quốc gia .
Theo ý tôi đây là 1 vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng Đảng Lao Động thiếu tín nhiệm họ . Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao nhiêu hy sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng chưa tin ở họ. Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu ? Họ có đòi làm Bộ trưởng hay Đại sứ đâu ? Không.
Đại đa dố các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên . Họ chỉ thiết tha, đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi . Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thứ mà thôi . Họ đã từng nghe thấy đảng tuyên bố : Người trí thức là vốn quý của dân tộc .
Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quý quá, đến nỗi phải cất nó đi thật kỹ, giữ gìn nó trong 1 bán ảnh, một hoàng hôn trường cửụ Nếu ai có cho rằng tôi nói không đúng, tôi đề nghị người ấy quay mặt nhìn chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của tạ có chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền không ? Tác dụng "hiếu hỉ" hay "cười gật" thì có, mà lại có nhiềụ Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm gì không, có quyền nói gì, làm gì không, quần chúng đã biết và tôi miễn trả nhờị
Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào ? xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao ? lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu ìI tan vỡ vì chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khi^?n của mình.
Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ vì các chính trị viên đưa vào các bệnh viện đã đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến. Đó không phải là chủ trương của Đảng Lao Động. Nhưng có 1 điều làm ta suy nghĩ : sao mãi bây giờ sau 10 năm Đảng mới nghiên cứu 1 chính sách cho trí thức ? Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công, ta chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó, làm thế nào khai thác được tất cả khả năng của người trí thức để họ mang chuyên môn ra phục vu, nhân dân ?
Trên đây tôi nói về người trí thức từ chiến khu trở về. Đối với người trí thức vẫn ở trong Thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy lại còn trầm trọng hơn nữạ Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em ấy phàn nàn bị coi như là kẻ thù, mặc dầu các anh em vì yêu nước, đã khắc phục mọi lo sợ, do tuyên truyền của địch gây ra và ở lại với chúng tạ Ta để cho cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không tìm cách nào sữa chữa sai lầm ta đã phạm với anh em .
ở các công sở tình trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đã đưa đến cái danh từ bi đát làm chúng ta đau lòng : "họ Lưu, họ Kháng". Không đoàn kết được các anh em, ta lại còn có thái độ úp mở, nhùng nhằng (ta tưởng như vậy là thượng sách), thậm chí ta lại còn nghi ngờ các anh em, ta không tôn trọng lời đã hứa qua chính sách tiếp quản và cương lĩnh Mặt trận, ta đẩy các anh em xa rời ta, ta vô tình ném xuống bể tiêu cực cái vốn chuyên môn của các anh en trí thức trong Thủ độ
Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa ta thấy rằng sở dĩ có những hiện tượng như ta vừa phân tách trên đây, chẳng qua vì sự lãnh đạo của ta thiếu dân chủ, xa lià quần chúng.
Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng biết. Vai trò của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng, như thế nào ; các vị đó làm được những gì trong Hội đồng Chính phủ, trong các nghành chuyên môn mà các vị ấy phụ trách, ta không nên đi quá sâu . Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe các tiếng than phiền của các cán bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu .
Ta biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng trong thực tế công tác mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như không phải là quan trọng cho lắm . Nhận định như vậy, có lẽ ta nhầm đấỵ Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao có "dư luận" không ai chối cãi được.
Do đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như vậy thì ít ra Đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại từ thời kháng chiến đến giờ. Những cũng có điều chắc chắn, không ai chối cãi được, là các vị Bô, hay Thứ trưởng không có trách nhiệm gì trước quốc hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước chính phủ mà thôi . Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ trưởng bị lật đổ cả. Phải đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong Cải cách mới thấy 2 vị thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng chính phủ. Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủ trong khi lập hội đồng chính phủ, vì các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất, ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rỏ hơn nữạ 10 năm Quốc hội đã thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý nguyện của quần chúng không, quần chúng có tín nhiệm ở quốc hội nữa không, đó là 1 vấn đề. Nhưng dù vấn đề ấy, ta giải quyết thế nào đi nữa, có 1 điều chắc chắn là 1 Quốc hội già 10 năm rồi và vẫn tồn tại, ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay đã bị truất quyền cử đại biểu của mình rồị
Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là 1 điều không làm được. Và hiện thời Nam Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội cũng khó khăn . Nhưng dù sao riêng các miền giải phóng này, nếu ta chỉ chú ý đến quyền người dân cử dại biểu của họ, thì nhất định ta phải cho phép người dân bỏ phiếu rồị Từ khi hoà bình trở lại, 2 năm đã qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân, và bổ xung Quốc hộị
Nào có thế thôi đâu ? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không ? Chắc chắn là không . Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng hay các chính sách để Quốc hội tán thành và bổ khuyết . Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu ? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm của Chính phủ va các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên trong Hội Đồng chính phủ, bấy nhiêu quyền. Quốc hội có được hưởng dụng không ?
Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôị còn như các sắc lệnh hay đạo luật thì thường thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban thường trực của Quốc hộị Nếu quốc hội là tổ chứ cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải khách quan nhận thấy rằng với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện thời quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.
Nói đến Mặt trận thì tình hình cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là tổ chức quần chúng có lẽ sát tình hình quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta có thể để nó đóng vai trò của nó không ? Không, tác dụng của nó là động viên quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về phương diện này, nó làm tròn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín nhiệm của Đảng và chính phủ. Nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một chiều thôi .
Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất của nó. Nó có thể là liên lạc "hai chiều" giữa quần chúng và Đảng, Chính phủ. Một mặt như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ. Nhưng mặt khác nó có thể là cơ quan phản ảnh lên Đảng và Chính phủ các ý kiến, thắc mắc nguyện vọng của quần chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiến nói của quần chúng, cung cấp tài liệu nguồn gốc ở quần chúng, tích cực giúp đỡ cấp lãnh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa cấp lãnh đạo và quần chúng.
Nhưng muốn để cho nó đóng vai trò ấy, ta phải "dân chủ" đối với nó, nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó, để nó mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng, dù là các ý kiến trái ngược với nhận định của cấp lãnh đạọ Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậỵ Ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ chỉ thỏ thẻ thôi những lời làm ta một phút chốc, tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta, trong cấp lãnh đạo đang say sưa . Vì vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ hoạ ta, tán đồng ta với thái độ của đứa con khen hay mẹ nó hát. Tóm lại, ta không dân chủ với nó. Do đó, ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích gì cho cấp lãnh đạọ
Thiếu dân chủ là gì ? Là xa vời quần chúng, là giam hãm mình vào ngục thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể phạm sai lầm nghiêm trọng như vậy được ?
Trước đây, ta không trả lời được. Những người kính yêu cách mạng rất ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi tìm tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lén sang phía tư bản. Ngay trong Thủ đô ta hiện thời, qua đại hội lần thứ 3 của Mặt trận Thành, ta thấy phản ảnh ý muốn của bao nhiêu đồng bào muốn đi Nam .
Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước mắt mà trở về Hà nộị Nếu chính thể của ta tốt tại sao lại có người dụng ý xa lánh, với trong lòng nỗi đau khổ bi đát ? Nếu cách mạng mang lại cho họ ánh sáng và hạnh phúc sao lại có người lo ngại trước cách mạng . Các người ấy không phải thuộc thành phần kẻ thù của cách mạng, trái lại thuộc thành phần cơ bản trong nhân dân như nông nhân, công nhân . Thế thì đâu là chân lý ? Đó là 1 vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không giải quyết được.
Bây giờ sau đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, sau các cuộc bạo động ở Berlin, Pozoan, bên tiệp, bên Hung, ta hiểu rõ vấn đề, ta giải quyết được nó. chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại hanh phúc cho dân tộc, sở dĩ vẫn có người xa lánh cách mạng, chẳng qua là vì chính thể cách mạng mắc trầm trọng bệnh xa lià quần chúng, thiếu dân chủ, do đó đi càng ngày càng sâu vào tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, duy trì một thái độ lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, có khi độc tàị
Thái độ một chiều không muốn, không cho phép, ai nói cái gì trái ngược ít nhiều với ý kiến nhận định, thành kiến của mình. Mình tự phụ, tự hào mình có độc quyền tìm thấy và gìn giữ chân lý. Đó là tật tự cao tự đại của nhà cách mạng. Ta bay bổng lên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở ta, trong tư tưởng, ta không khinh quần chúng, nhưng trong hành động, quả thực con mắt khách quan nhận thấy ta bất chấp quần chúng. Thậm chí, khi ta nghe thấy 1 tiếng nào, từ quần chúng nói lên rằng ta nhầm, ta làm như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay đó là tiếng của địch.
Sở dĩ quan điểm bạn thù của ta mơ hồ, và đâu ta cũng trông thấy địch, chẳng qua vì ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi . Bây giờ ta biết rõ là nếu bệnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời, thì trách nhiệm chính là Stalin phải chịụ Vì tự cao, tự đại,tự phụ, tự mãn, Stalin không cho phép ai dân chủ với mình, đâu cũng trông thấy địch. Kết quả thế nào ta đã biết : khẩu hiệu nêu lên, thét lên gào lên là : đề cao cảnh giác. Và lợi dụng tình thế ấy, ta biết Béria đã làm những gì, phạm tội ác như thế nàọ
Nếu không có quyết định của đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, nếu không có những sai lầm cực kỳ tai hại trong Cải cách ta chưa mở mắt được, ta sẽ còn thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối, thành sông, bao nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau xót rời bỏ cách mạng. tuy ta phải trả một giá quá cao, nhưng bây giờ ta biết rõ nguyên do của các đau khổ của ta : ta thiếu dân chủ.
Phương hướng sửa chữa sai lầm
Qua lịch sử đấu tranh của quần chúng hai nghìn năm nay ta thấy cái gì mà nhân bản của loài người đòi hỏi thiết tha nhất đó là một đời sống vật chất tương đối đày đủ êm ấm, đó là một tinh thần tương đối ổn định có đảm bảo và tự do . Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ bản dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây vấn đề dân quyền.
Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản . Từ cuộc cách mạng tư sản Hoa kỳ cuối thế kỷ thứ 18. Cách mạng tư sản Pháp 1789, tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của Nga, quần chúng nổi dậy, mang xương máu để giành cho kỳ được chế độ dân chủ.
Sau cuộc đại chiến lần thứ hai, Hiến chương Liên hiệp quốc đúc kết những htành quả của các phong trào lịch sử tranh đấu cho dân chủ, và đặt các nước văn minh trước trách nhiệm của họ để thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc dân chủ . Đối với các nước tư bản ta không ngạc nhiên thấy chế độ dân chủ thực hiện với những thiếu sót quan trọng .
Nhưng ta có quyền ngạc nhiên khi ta thấy các thiếu sót ấy cũng xuất hiện trong các nước đã hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩạ Đại hội lần thứ 6 của hội quốc tế các luật gia dân chủ họp trong tháng 5 vừa rồi tại Bruxelles đã lấy làm tiếc mà nhận thấy rằng trong tất cả các nước, dù tư bản hay xã hội chủ nghĩa, mặc dầu các Hiến pháp, các bộ luật tuyên bố trịnh trọng, tôn trọng, thực hiện, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc dân chủ tuy nhiên các nguyên tắc này vẫn bị dầy xéọ Vì vậy trong tất cả các nước, quần chúng tranh đấu kịch liệt.
ở nước ta, trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố. Nhưng qua phong trào phát huy dân chủ mà chính phủ chủ trương, qua đại hội nhân dân thủ đô lần thứ 3, các đại hội mặt trận trung ương, Mật trận Thành, qua thông báo của hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng lao Động. của Chính phủ .v.v... nhân dân nhận thấy, và Đảng cũng như chính phủ xác nhận rằng ta thiếu sót về dân chủ khá nhiềụ Vì các thiếu sót ấy, ta phạm các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất, như tôi đã trình bày trên đâỵ Nguyên nhân sâu sắc của các sai lầm ấy, ta có thể quy kết được.
Sở dĩ đời sống tinh thần của ta không được ổn định, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ các hành động "lộng quyền" của nhà đương cục, vì ta thiếu một chế độ pháp trị phân minh, không đề ra nghĩa vụ và quyền lợi cụa mọi người, đồng thời cả của cấp lãnh đạo nữạ Sở dĩ cấp lãnh đạo có thể phạm được các sai lầm nghiêm trọng trong Cai cách ruộng đất, tổn thất cho xương máu, mồ hôi nước mắt của đồng bào, cho uy tín của Đảng và chính phủ, là vì người dân không có quyền, không có phương tiện, nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của chính phủ.
Do đó, phương hướng sữa chữa các sai lầm là một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự
a) Một chế độ pháp trị chân chính -- ở đây chưa phải lúc vào chỗ để tôi trình bày ý kiến về vấn đề pháp trị. Ta sẽ có dịp khác. ở đây tôi chỉ muốn trình các qúy vị một nhận xét.
Đảng lao Động và Chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong chính sách sữa chữa các sai lầm trong Cả cách, phải "tăng cường chế độ pháp trị" của tạ Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp trị chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như một "bà con nghèo". chữ "tăng cường" là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta hiện thời có 1 bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi trình bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính. Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà là xây dựng.
Một chứng minh khác trong chính sách sữa sai trong Cải cách này, tôi vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết, bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi .
Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến họp hội nghị này, tôi nhận thấy rằng không ai "thông" về ý kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng trình bày cả. Riêng về phần tôi một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lý, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để quy định trách nhiệm của người ấỵ Trong Cải cách , khi những đảng viên ưu tú bị đoàn Cải cách gán cho là phản động, ra trước nhân dân có người cũng nhận tội, trong khi biết mình là oan . Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua, sữa sai không phải là phạm các sai lầm khác.
Do đó, đứng trên 1 lập trường pháp trị chân chính, tôi đề nghị phải lập 1 ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao Động, với sự cộng tác của cá c vị thẩm phán cao cấp, giầu kinh nghiệm, để lập 1 hồ sơ theo phương pháp pháp lý để nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do ai phải chịụ Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành tòa án tối cao . Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các toà án tư pháp. Dưới con măt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy, không ai còn thắc mắc nữạ
Có người hỏi : làm thế để làm gì ? Tôi xin phép trả lờị Làm thế để rút kinh nghiệm. Tôi cảm thấy ngay hiện thời ta chưa rút được kinh nghiệm đâu . Chính trị không những lãnh đạo pháp lý - đó là đúng - nhưng vẫn lấn át pháp lý, thay thế cho pháp lý, như trong trường hợp ông Hồ viết Thắng, như thế là ta vẫn mở cửa cho các sai lầm mới còn nguy hại hơn nữa . Không những thế, ta biết rằng nhu cầu công lý thuộc nhân bản của người văn minh . Từ người bị xử trí oan cho đến các người chỉ chịu thiệt gián tiếp vì các sai lầm, có thể nói được rằng toàn dân đợi chờ công lý.
Một biện pháp chính trị xuề xoà, không thỏa mãn được ai . Bằng chứng ở nông thôn ta được biết tình hình "căng thẳng". Phong trào trả thù, tự xử, diễn ra khắp mọi nơi, kéo chúng ta trở về quá khứ của lịch sử. Còn như các đảng viên bị xử trí sai, tâm hồn các anh em như thế nào, ta chỉ cần đọc lại báo Nhân Dân. tuy rằng các anh em kết thúc bài tường thuật lại đau khổ của mình bằng những lời phấn khởi nhưng các lời này không làm ta quên được các lời phẩn uất, chua xót, cay đắng mà các em nói lại với ta từ đầu bàị
Nhưng bi đát hơn hết là các chiếc khăn tang trắng chít trên đầu họ hàng thân thích của những anh em bị xử tử, những bàn thờ vẫn dựng trong nhà, các thởn thức phá vỡ im lặng của các đêm hiu quạnh, các ngày cúng giỗ, nhắc lại hànhg năm, bi kịch thê thảm đã diễn ra trong gia đình vì cuộc Cải cách. Nhân dân đòi hỏi các người có công được thưởng và các người có tội phải đền tộị Trách nhiệm của tất cả mọi người từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, phải được quy định rõ ràng, dứt khoát. Như thế, mới yên được lòng dân, như thế mới thu phục được nhân tâm. Kinh nghiệm lịch sử dạy ta điều ấỵ Trong chính sách sữa chữa sai lầm, ta không thể quên được bài học lịch sử. Quần chúng im lặng đợi chờ công lý.
Chúng ta thiết tha mong ước ở chính trị một nhận định đúng về vai trò của pháp luật phục vụ cách mạng. Kinh nghiệm đau đớn vừa qua, bó buộc ta phải xây dựng lại quan điểm "địch" trên cơ sở pháp lý và pháp trị . Các sai lầm nghiêm trọng ta đã phạm, bắt nguồn ở một quan điểm chính trị về địch . Quan điểm ấy linh động quá "biện chứng" quá, nên ta không biết phân tách địch và ta, do đó ta đánh cả ta nữạ
Muốn tránh các sai lầm hôm qua đừng tái diễn ngày mai, ta cần xác định theo hình luật thế nào là địch . Lúc đó, ta mới đánh đúng địch, và có đánh đúng địch ta mới củng cố được ta, ổn định được nhân tâm, duy trì lại trật tự và an ninh ở thôn quê cũng như ở thành thị, đảm bảo cho quần chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi sự đe dọa của "lộng quyền", bênh vực các quyền can bản và thiết yếu của con người
Tóm lại nếu chính trị giác ngộ, vui lòng tôn trọng pháp lý, thiết lập một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lãnh đạo pháp lý, nhưng đồng thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lý và pháp trị thì nhất định chính trị khôi phục được uy tín, và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ .
b) Một chế độ thực sự dân chủ : Thế nào là một chế độ thực sự dân chủ ? Đó là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữạ Đây không phải là lúc, là chỗ, mà ta đi sâu vào vấn đề. Ta chỉ cần nhận thấy rằng trong giai đoạn hiện thời, quần chúng có đòi hỏi cái gì quá đáng đâu, chỉ yêu cầu có 1 điều thôi, là được đàm thoại với cấp lãnh đạo, được đề đạt lên cấp lãnh đạo, ý kiến của mìn về các chính sách do cấp lãnh đạo xây dựng. Các vị lãnh đạo đã bao lần khen dân ta tốt. Mà dân ta tốt thật . Bằng chứng là điều tôi vừa nhắc lại đây .
Trong khi quần chúng có quyền đòi hỏi ở một chính thể cách mạng rất nhiều, nhân dân ta chỉ có 1 yêu cầu mà ai cũng phải nhận là chính đáng. Tại sao nhân dân chỉ có 1 yêu cầu nhũn nhặn ấy mà thôi ? Là vì nhân dân thông cảm với cấp lãnh đạo phải đương đầu với bao khó khăn . Nhưng nếu nhân dân chỉ đề ra có 1 yêu cầu, yêu cầu ấy thiết yếụ tôi tin rằng cấp lãnh đạo cũng nhận thấy như vậỵ
Ta không quên lời ông Trường Chinh đọc bản tự phê của Đảng Lao Động tại hội nghị nàỵ Ta nghe thấy cấp lãnh đạo thú nhận trước hội nghị rằng Trung ương Đảng đã sai lầm là xa quần chúng, chỉ tiếp xúc với quần chúng qua báo cáo của các cán bộ Đảng viên mà thôị Ta phải nhận định rằng đây là 1 sai lầm nghiêm trọng. Do đó cuộc Cải cách ruộng đất của ta đã gặp các thất bại cay đắng . Trái với lời thường nói, ta đã thiếu dân chủ với nhân dân .
Nhân dân nhất định không để tình trạng tai hại ấy kéo dài nữạ Tôi xin phép hội nghị góp 1 số ý kiến để chấm dứt tình trạng đó. Tôi không đặt vấn đề dân chủ nói chung . Tôi chỉ chú ý đến yêu cầu thiết tha nhất hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý nguyện của mình. Theo ý tôi, để thực hiện và đảm bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần 3 giải pháp :
1) Một chế độ báo cáo của cán bộ. Đảng tín nhiệm ở cán bộ. Đúng ! không tài nào khác được. Vậy phải đặt các cán bộ có nhiệm vụ báo cáo, trước trách nhiệm của họ. Một báo cáo không phản ảnh trung thành sự thật với các khía cạnh của nó, với các ưu khuyết điểm của nó, rất tai hại . Cấp lãnh đạo cần đề cao cảnh giác với các con số thống kê, các động cơ bất chính của cán bộ muốn thi đua thành tic h, vừa mị dưới, vừa lừa trên, do đó đưa ra 1 hình ảnh quá hẹp của thực tế. Ta phải tiến tới giải pháp nhận định rằng người nào hữu ý xuyên tạc sự thật vì động cơ bất chính, có thể truy tố về tội giả mạo được.
2) Một chế độ cho các đoàn thể nhân dân được quyền mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng mà họ tập hợp. Từ trước tới nay, ta có thể ví Đảng Lao Động như 1 cây rất to, lá rờm ra che hết ánh sáng của mặt trời, khiến ngay 1 ngọn cỏ cũng không thể mọc dưới chân nó được . Vì vậy Quốc hội cũng như Mặt trận Tổ Quốc, không thể đóng được vai trò của mình.
ở đây, tôi chỉ xin phép nói về Mặt trận của ta thôi . Các vị đã thấy rằng từ khi thành lập Mặt trận Liên Việt cho đến Mặt trận Tổ Quốc, chúng ta chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng thi hành chính sách mà thôi . Đó là 1 nhiệm vụ . Nhưng dù sao, chỉ có 1 chiềụ Ta là giây liên lạc giữa các cấp lãnh đạo và quần chúng. Nếu ngược lại, ta có quyền liên lạc giữa quần chúng và cấp lãnh đạo, nghĩa là phản ảnh lên Đảng và Chính phủ ý kiến thắc mắc nguyện vọng của quần chúng, công tác của ta thế nào cũng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn .
Ta gắn liền lãnh đạo và quần chúng, do đó lãnh đạo sát hợp với thực tế hơn. tôi xin phép đặt mỗi ủy viên trước trách nhiệm của mình. chúng ta ủng hộ chính phủ, nhưng chúng ta cũng là đại biểu của nhân dân. công tác của chúng ta có 2 mặt, chúng ta không thể chỉ lệch về 1 bên được. Quần chúng không cho phép ta làm như vậy, muốn theo dõi công việc ta làm vì chúng ta làm đại biểu của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Quần chúng giao quyền cho chúng ta, chúng ta phải xứng đáng với sự ủy quyền ấỵ Ta xử dụng quyền ấy thế nào, quần chúng đòi kiểm soát ta
Để đạt mục đích này tôi xin phép đề nghị : một là mỗi ủy viên phải có nhiệm vụ phản ảnh lên Mặt trận ý kiến của quần chúng. Mặt trận phải có nhiệm vụ đề đạt lên cấp lãnh đạo đảng những phản ảnh của các ủy viên và báo cho các vị ấy thái độ của cấp lãnh đạo giải quyết vấn đề sao, xử dụng các phản ảnh như thế nàọ
Khi Mặt trận họp hội nghị, phải cho phép quần chúng đến bàng thính ; để quần chúng kiểm soát công việc của Mặt trận làm và thái độ của các ủy viên. Dĩ nhiên các người bàng thính ấy không có quyền tham gia thảo luận, chỉ được nhập hội trường cho tới khi hết số ghế dành cho quần chúng và phải tôn trọng kỷ luật của hội nghị. Ngoài ra, báo chí, đặc biệt báo chí của Mặt trận như tờ Cứu Quốc phải phản ảnh trung thành nội dung của các cuộc thảo luận và đăng các tham luận của các ủy viên
3) Một chế độ tự do ngôn luận xuất bản báo chí. Ta phải đề phòng trường hợp các cán bộ không báo cáo, các ủy viên của Mặt trận không phản ảnh ý kiến của quần chúng. Do đó ta thấy cần thiết phải cho phép quần chúng nói lên tiến nói của mình qua các báo chí. Có người lo ngại rằng tự do ngôn luận này mà ai cũng cần thiết, có thể bị xử dụng 1 cách bừa bãi. Về điều này ta phải suy nghĩ.
Mối lo ngại trên đây phát xuất từ động cơ nào ? Nếu là động cơ tốt nghĩa là do 1 nhiệt tình đối với cách mạng gây ra, ta hoan nghênh . Nhưng ta cũng sẽ trả lời rằng trong 1 chính thể dân chủ muốn xử dụng tự do nào, dĩ nhiên phải nêu trách nhiệm của người xử dụng tự do ấy, trước pháp luật. Nếu xử dụng vớ tinh thần trách nhiệm hợp pháp, ta không có quyền kêu ca gì, trái lại, ta hoan nghênh. Nếu lạm dụng 1 cách vô trách nhiệm ta đã có toà án để nghiêm trị . Vậy ta không lo ngạị
Nhưng nếu mối lo ngại xuất phát từ 1 động cơ bất chính, nhằm mục đích thủ tiêu các tự do dân chủ thì tôi chỉ cần khuyên nhủ người lo ngại như vậy nên đọc lại lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn 1 thế kỷ nay . Họ sẽ nhận thấy rằng chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được 1 phong trào quần chúng tranh đấu đòi các tự do dân chủ.
Không những ta công nhận các tự do dân chủ, ta lại còn cung cấp phương tiện để thực hiện các tự do ấỵ Thí dụ tự do ngôn luận. Ta có các báo của chính phủ, của Đảng, của Mặt trận, ta lại có các báo của tư nhân, ta giúp đỡ cho các báo ấy giấy và mực in đầy đủ, ta lại còn quảng cáo cho các báo ấy là đàng khác nữạ Các cơ quan tuyên truyền, báo chí của ta không bao giờ tìm khó dễ cho các báo ấy và khi nào các báo đó được hàng vạn độc giả hoan nghênh, ta rất làm sung sướng vì trong thâm tâm ta , ta là những người dân chủ.
Các biện pháp tôi đề nghị trên đây, đều nhằm mục đích cống hiến các cấp lãnh đạo một nhận thức đúng và sát thực tế mà cấp lãnh đạo không có điều kiện biết đến 1 cách trực tiếp. Sát với thực tế của quần chúng, cấp lãnh đạo thông cảm với quần chúng, đi đúng đường lối của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, ủng hộ, mến yêu .
Thưa các quý vị ,
Tôi nói đã quá lâu, nhưng tôi tin các vị cũng tha thứ cho, vì biết rằng tôi là 1 người thiết tha đến sự nghiệp của cách mạng và tiền đồ của dân tộc . Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ xin thành khẩn đề đạt lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, 1 phần nhỏ mọn nhưng chan chứa 1 niềm hy vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước.
Luật sư NGUYễN MạNH TƯờNG
Hà nội, ngày 30-10-1956
Nguyễn Mạnh Tường: Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo
Ngày 30/10/1956, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo” trước Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội.
Đây là một bài chính luận sâu sắc, nội dung phân tích những sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ của chế độ. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị của đất nước.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã viết lại bài “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất” để đăng trên báo Tự Do Diễn Đàn, ra tháng 12 năm 1956 nhưng bị cấm.
(Ảnh : DR)Với giọng văn vừa mỉa mai, vừa chua xót, Nguyễn Mạnh Tường nói thẳng với Trường Chinh:
“Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. (…) Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh”
Với tài hùng biện, Nguyễn Mạnh Tường đã “nói” bài này trước Mặt trận tổ quốc, sau khi nghe Trường Chinh đọc bản tự phê bình của Đảng Lao Động về chính sách cải cách ruộng đất. [Ông ứng khẩu, sau người ta yêu cầu ông viết lại (đăng trên báo Tự do diễn đàn, ra tháng 12/56, bị cấm)].
Trong cuộc đối thoại trực tiếp với Trường Chinh, Nguyễn Mạnh Tường buộc tội:
Những người lãnh đạo, có trách nhiệm vụ Cải cách ruộng đất làm cho bao nhiêu người chết oan, không thể chỉ đứng ra xin lỗi, hoặc nhận là Đảng đã sai lầm, mà xong đâu. Xin lỗi không phải là hành động luật pháp. Giết người rồi, không thể chỉ xin lỗi mà xí xoá được. Trong một nước dân chủ thực sự, thì Quốc hội phải lập một ủy ban điều tra, phải đưa họ ra toà, và toà sẽ phân xử, kết án, tùy theo trách nhiệm nặng nhẹ của mỗi người, từ lãnh đạo cao nhất xuống dưới.
Trước tiên, ông phân tích tình hình chính trị xã hội Việt Nam, bằng những chất vấn:
“Tình hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi quan không?”
“Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân,nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch”.
Sau khi tổng kết tình trạng bi quan về kinh tế, xã hội, Nguyễn Mạnh Tường trở lại vấn đề Cải cách ruộng đất, ông hỏi: chúng ta đã sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất, nhưng bây giờ phải tìm hiểu xem sai ở đâu? Vì sao mà sai?
Đường lối cách mạng đề ra là người cày phải có ruộng, trên nguyên tắc điều ấy là đúng, không ai chối cãi. Nhưng khi thi hành chính sách này người ta đã coi thường sinh mạng con người, và vi phạm luật pháp:
“Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa (…) Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: “Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan”.
Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại những nguyên tắc cơ bản của pháp lý:
- không phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra.
- Chỉ một mình phạm nhân chịu trách nhiệm việc mình làm, không có trách nhiệm chung của vợ con, gia đình.
- Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng.
- Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình.
Những nguyên tác cơ bản này không được áp dụng trong cải cách ruộng đất.
Sở dĩ có sai lầm như vậy vì ba nguyên do:
- Quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ
- Bất chấp pháp luật
- Bất chấp chuyên môn.
Vì quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ, cho nên bao nhiêu bi kịch đẫm máu xẩy ra [các hiện tượng thanh trừng trong các nước cộng sản], có “những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa”. Trong cuộc cải cách ruộng đất, bao nhiêu “chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy” cũng “bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình“. Những cán bộ hành xử như vậy, nếu vì “chủ mưu phá hoại” thì phải đưa ra toà, còn nếu vì điên cuồng thì phải đem đi chữa bệnh thần kinh.
Vì chính trị bất chấp pháp luật cho nên, muốn xử tử ai cũng được: “Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp”.
Vì bất chấp chuyên môn cho nên “Trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ (…) Khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh mình có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra) (…) Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý“.
Thiếu dân chủ
Quốc hội thành lập đã mười năm [từ 1946 đến 1956]. “Nhưng quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu?” “Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi”.
“Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố”. Nhưng trong thực tế: “người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ”.
Đề nghị hướng sửa chữa sai lầm: một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.”
Nguyễn Mạnh Tường nói:
“Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản”.
“Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có”. Vì không có một chế độ pháp trị chân chính cho nên mới xẩy ra vụ cải cách ruộng đất.Và sau khi xẩy ra rồi, thì: “phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các tòa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa”.
Làm như thế mới đúng quy tắc của một chế độ dân chủ. Một chế độ thực sự dân chủ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa.
Và ông nhấn mạnh: ” Lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay, chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đòi các tự do dân chủ”.
Cùng với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, đây là một trong ba văn bản quan trọng nhất thời kỳ NVGP. Theo Hoàng Văn Chí, bài diễn văn của Nguyễn Mạnh Tường lọt ra ngoại quốc, không biết bằng cách nào, đã đến Rangoon, rồi truyền sang Paris và có tiếng vang trong dư luận quốc tế.
Cách bàn về dân chủ của các tác giả trong NVGP là nói với một quần chúng đã quen biết với dân chủ, có ý thức, có trình độ cao về dân chủ, khác hẳn với lối viết giản dị và giáo khoa của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX, nói với một quần chúng còn phôi thai vế vấn đề dân chủ. Và cũng khác cách viết tự tin và tự hào dân tộc của Hoàng Đạo đối đầu với thực dân Pháp. Như vậy đủ thấy rằng từ đầu đến giữa thế kỷ XX, trong đầu óc người Việt nam, tự do dân chủ đã có những biến chuyển lớn lao, chứ không hề dậm chân tại chỗ.
Chỉ từ khi đảng Cộng sản dập tắt phong trào NVGP, dẹp tan tư tưởng tự do dân chủ, giữ địa vị độc tôn cai trị, coi tất cả những đảng phái đối lập là thù nghịch, là phản động, và nhất là không còn giáo dục học sinh về quyền công dân, quyền con người nữa, thì người Việt mới lại rơi vào vòng chậm tiến, không ý thức được vấn đề tự do dân chủ, và chúng ta mới phải nghe những lời tuyên bố thoái hoá của những “trí thức”, lãnh đạo, về vấn đề tự do dân chủ như ngày nay.